Chuyện cổ Nhật Bản “Mụ quỷ và tiểu tăng”
- 08/11/2018
- Posted by: Admin
- Category: Thư giãn

Hôm nay, Hướng Minh sẽ giới thiệu đến bạn một trong những câu chuyện dân gian mà hầu như người Nhật nào cũng biết. Câu chuyện cổ Nhật Bản có tên: “Mụ quỷ và tiểu tăng”. Cùng đọc suy ngẫm những mẫu ngữ pháp, từ vựng có trong bài và rút ra bài học ý nghĩa sau câu chuyện này bạn nhé!
鬼婆と小僧 – Mụ quỷ và tiểu tăng
あるお寺(おてら)に、こぞうさんがいました。ある日(ひ)、おしょう様(さま)に
山(やま)をこえたとなりの村(むら)へお使(つか)いに行(い)くように言(い)われました。
「山(やま)には、人(ひと)を食(た)べるおにばばがいるから、このおふだを三枚(さんまい)もって行(い)きなさい。
願(ねが)い事(ごと)を言(い)えばかならずかなえてくれよう」
Ở một ngôi chùa nọ có một tiểu tăng ở đó. Một hôm, tiểu tăng được hòa thượng sai đi mua hàng ở thôn kế bên bên kia núi.
“Ở trong núi có một con quỷ cái chuyên ăn thịt người, con hãy cầm ba tấm bùa này mà đi.
Chỉ cần con ước điều gì là chắc chắn sẽ thành hiện thực.”
こぞうさんが、山道(やまみち)を歩(ある)いていくと、道(みち)ばたにおばあさんがすわっていました。
「こぞうさん、こぞうさん、ちょっと手(て)をかしておくれでないか。
家(いえ)まで帰(かえる)るのに足(あし)がいたくなってあるけなくなってしまったよ」
おばあさんは、そう言(い)いました。
Tiểu tăng đang đi bộ đường núi thì có một bà lão ngồi ở ven đường.
“Tiểu tăng, tiểu tăng, có thể giúp bà một chút không.
Bà đang đi về nhà thì chân bị đau nên không đi nổi nữa đâu”
Bà lão nói vậy với tiểu tăng.
こぞうさんは、おばあさんの手(て)を引(ひ)いてあげました。
「あっちだよ」と、おばあさんは、道(みち)を教(おし)えてくれました。
でもその道(みち)は、どんどん山(やま)のおくへ向(む)かっています。
Tiểu tăng dắt tay bà lão đi.
“Phía kia đấy”, bà lão chỉ đường cho tiểu tăng.
Nhưng mà con đường đó càng ngày càng đi sâu vào trong núi.
こうして、とうとう山おくのいっけんのあばらやに着(つ)きました。
「ありがとうよ。でも、もうすぐ日がくれる。夜道(よみち)はあぶないから、
今夜(こんや)はここにおとまり」
おばあさんに言(い)われて、こぞうさんはしかたなく、
おばあさんの家(いえ)にとまることにしました。
Cứ như vậy cuối cùng tới một túp lều ở sâu trong núi.
“Cám ơn nhé. Nhưng mà trời sắp tối rồi. Đường ban đêm nguy hiểm lắm, tối nay cháu ngủ lại đây đi”
Bà lão nói vậy với tiểu tăng, tiểu tăng chẳng còn cách nào khác đành phải ở lại nhà bà lão.
夜中(よなか)に、こぞうさんはふと目(め)を覚ましました。
すると、シャッシャッという音(おと)がします。
ふすまの穴(あな)からとなりの部屋(へや)をのぞいてみると
やさしそうなおばあさんは、
鬼(おに)ばばのすがたになって、
ほうちょうをといでいるではありませんか。
「きっと、私を食(たべ)べるつもりだ」
Giữa đêm tiểu tăng bất chợt thức giấc.
Chú liền nghe thấy tiếng xoẹt xoẹt.
Chú nhìn trộm qua lỗ trên vách thì thấy bà lão hiền từ đã biến thành hình một con quỷ cái và không phải nó đang mài dao đó sao?
“Chắc chắn là định ăn thịt mình”
「おばさん、おばあさん、おしっこ」
こぞうさんは、そう言(い)っておばあさんを呼(よ)びました。
「しかたないね、まよわないようにこのなわでしばって
あげるから、便所(べんしょ)にいっておいで」
鬼(おに)ばばは、こぞうさんのこしのところをなわで
しばってやりました。
“Bà ơi, bà ơi, cháu đi tè”
Tiểu tăng nói vậy để gọi bà lão.
“Vậy phải đi thôi, để cháu không lạc thì bà sẽ buộc cho cháu sợi dây thừng này, cháu đi nhà tiêu rồi quay lại nhé”
Mụ quỷ buộc sợ dây thừng vào eo của tiểu tăng.
こぞうさんは、便所(べんしょう)にはいるとこしをしばっているなわをといて、
にしばりつけるとそこへおしょうさんにもらったおふだを一枚(いちまい)はさみました。
「どうか、あの鬼(おに)ばばが何(なに)か言(い)ったら、まだまだと答(こた)えてください」 そうして、こぞうさんは、こっそりにげだしました。
Tiểu tăng vào nhà tiêu liền cởi sợi dây thừng buộc ở eo, buộc vào cột rồi kẹp một tấm bùa mà hòa thượng đưa cho vào.
“Nếu mà mụ quỷ đó nói điều gì thì xin hãy bảo là vẫn chưa, vẫn chưa”
Làm vậy xong tiểu tăng bí mật chạy trốn đi.
「まだかい、こぞうさん」
鬼(おに)ばばが声(こえ)をかけると、柱(はし)が答(こた)えます。
「まだ、まだ」
「まだかい、こぞうさん」
「まだ、まだ」
こうしている間(あいだ)に、こぞうさんはどんどん遠(とお)くまでにげていきました。
“Xong chưa hả tiểu tăng?”
Mụ quỷ hỏi thì cây cột liền trả lời “Vẫn chưa, vẫn chưa”.
“Xong chưa, tiểu tăng?”
“Vẫn chưa, vẫn chưa”
Trong lúc như vậy, tiểu tăng càng ngày càng chạy trốn đi xa.
やっとこぞうさんがいないことに気(き)づいた鬼(おに)ばばは、こぞうさんを追(お)いかけました。
その早(はや)いこと早(はや)いこと、見(み)る間(あいだ)にこぞうさんに追(お)いついてきました。
もう少(すこし)しで、鬼(おに)ばばの手(て)がこぞうさんにとどきそうになったとき、
こぞうさんはおふだを投(な)げて言(い)いました。 「大きな川を作ってください」
Cuối cùng thì mụ quỷ cũng phát hiện ra tiểu tăng không có ở đó, liền đuổi theo.
Rất nhanh chóng vừa nhìn thấy tiểu tăng là mụ đã đuổi kịp.
Khi còn chút xíu nữa thì tay mụ quỷ tóm được tiểu tăng thì tiểu tăng liền ném ra một tầm bùa và nói: “Xin hãy tạo ra một dòng sông lớn”
すると、鬼(おに)ばばの目(め)の前(まえ)に大きな川(かわ)ができました。
鬼(おに)ばばは、その川(かわ)を泳(およ)いでわたらなければなりません。
そのすきに、こぞうさんは、どんどん遠(とお)くまでにげていきました。
Lập tức có một con sông lớn xuất hiện trước mặt mụ quỷ.
Mụ quỷ phải bơi qua con sống đó.
Trong lúc đó tiểu tăng chạy trốn càng ngày càng xa.
川をわたった鬼(おに)ばばが、またまた追(お)いついてきました。
もう少(すこ)しで、鬼(お)ばばの手が、こぞうさんの背中(せなか)にとどきそうになったとき、
こぞうさんは最後(さいご)のおふだを投げて言いました。
「大きな砂山(すなやま)を作ってください」
すると、大きな砂山ができて、鬼ばばはすべってころんで
なかなかこぞうさんに追(お)いつけません。.
Mụ quỷ, vừa qua được sông, lại đuổi tới nơi.
Khi chút xíu nữa là tay mụ lại chạm được vào lưng tiểu tăng,
tiểu tăng ném nốt tấm bùa cuối cùng và nói:
“Xin hãy tạo ra một núi cát lớn”
Lập tức một núi cát lớn xuất hiện, mụ quỷ trượt ngã lăn,
không sao có thể đuổi kịp tiểu tăng.
そのすきに、こぞうさんはお寺(てら)にかけこみました。
そしておしょうさんに言いました。
「おしょうさん、おしょうさん鬼(おに)ばばに追(お)いつかれそうです」
「よしよし、そこのおしいれにかくれていなさい」
Trong lúc đó, tiểu tăng chạy vào trong chùa và nói với hòa thượng:
“Hòa thượng, hòa thượng, con sắp bị mụ quỷ đuổi kịp rồi”
“Được rồi được rồi, con trốn vào trong cái tủ quần áo kia đi”
こぞうさんが、押入(おしいれ)にかくれたとたん、鬼ばばが飛(と)びこんできました。
「やい、おしょう、こぞうがにげてこなかったか」
「いや、だれもこなかった」
「うそをつけ、うそをつくとおまえから食べてしまうぞ」
Tiểu tăng vừa trốn vào tủ xong thì mụ quỷ chạy như bay vào.
“Này, hòa thượng, tiểu tăng có chạy tới đây không?”
“Không, không có ai tới cả”
“Cứ nói dối đi, nói dối thì tao sẽ ăn thịt mày trước đấy”
「じゃあ、わざくらべをしよう。私が負(ま)けたら、私を食(た)べても良(い)いぞ。
そうだな、お前(まえ)は豆(まめ)に化けられるか?あんな小さなものに化けるのはむずかしいだろう」
そう言われて、鬼ばばは、
「何(なに)を、豆(まめ)だと。そんなのは簡単(かんたん)だ」
と言いながら、とんぼ返(がえ)りをしました。
すると、あっという間(ま)に小さな豆(まめ)になってしまいました。
“Vậy thì, chúng ta hãy đọ phép thuật. Nếu tao thua thì mày có thể ăn thịt tao đấy. Thế nào, mày có biến thành hạt đậu được không? Biến thành hát đậu bé tẹo như vậy khó lắm đấy nhỉ?”
Vừa nghe vậy mụ quỷ liền nói “Cái gì? Hạt đậu ấy à? Việc đó dễ lắm” rồi lượn một vòng. Lập tức mụ biến thành hạt đậu bé tẹo.
それを見(み)たおしょうさんは、さっと手(て)をのばして豆(まめ)をつまむと口(くち)にほうりこんで、
むしゃむしゃ食べてしまいました。 —おしまい—
Hòa thượng, vừa nhìn thấy thế, nhanh tay cầm hạt đậu bỏ vào miệng nhai mất tiêu.
Trong mẫu chuyện dân gian trên có rất nhiều mẫu ngữ pháp và từ vựng lạ đã được sử dụng mọi người hãy lọc ra và học thôi nào. Đây cũng là một phương pháp học rất hiệu quả đấy nhé!